Đăng ngày:
Mẹ tôi giờ đây lặng lẽ bên góc nhỏ, tỉ mẩn luồn từng sợi chỉ, đan từng mũi kim để tạo ra những chiếc khăn và món đồ chơi bán trên mạng. Mỗi sản phẩm chỉ mang về vài chục nghìn đồng, bà vẫn rất vui vì tìm thấy niềm an nhiên và ý nghĩa trong từng đường kim mũi chỉ. Còn ba tôi, đã ngoài 65 tuổi, vẫn miệt mài đến công trường, không phải vì cơm áo mà ở nhà quá lâu khiến ông thấy trống trải. Với ông, tiếng máy móc ồn ã, những bản vẽ kỹ thuật và nhịp sống công trình đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời. Dù đã qua tuổi lao động, cả ba và mẹ tôi vẫn chọn tiếp tục làm việc, không chỉ để lấp đầy thời gian mà còn để tìm lại chính mình trong những thói quen thân thuộc. Có công việc phù hợp sau tuổi nghỉ hưu như ba mẹ tôi không phải là thực tế phổ biến. Đây chỉ là một góc nhỏ trong bức tranh lớn hơn. Việt Nam đang già hóa dân số với tốc độ thuộc nhóm cao nhất thế giới. Dự báo của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc cho thấy, đến năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn xã hội già, khi người từ 60 tuổi trở lên chiếm 20% tổng dân số hoặc nhóm từ 65 tuổi trở lên chiếm 14%. Đến năm 2049, Việt Nam sẽ trở thành một xã hội siêu già, với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 25% và nhóm từ 65 tuổi trở lên chiếm hơn 20% dân số. Già hóa dân số không chỉ là xu hướng nhân khẩu học mà còn đặt ra thách thức lớn cho hưu trí, y tế và an sinh, đòi hỏi chính sách toàn diện để chăm sóc sức khỏe và tạo cơ hội việc làm phù hợp nhằm nâng cao đời sống cho người cao tuổi. Để chăm sóc sức khỏe, không sớm thì muộn, Việt Nam vẫn phải dựa vào mô hình nhà dưỡng lão. Ở các nước phát triển, đây không chỉ là nơi trông coi, nuôi dưỡng mà còn tổ chức giao lưu, giải trí, giúp các cụ bớt cô đơn và giữ tinh thần lạc quan. Nếu phát triển hợp lý, nhà dưỡng lão có thể trở thành giải pháp hiệu quả, mang lại môi trường sống phù hợp mà không ảnh hưởng nhiều đến con cháu. Nhưng thực trạng chăm sóc người lớn tuổi ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Phần lớn các cụ sống phụ thuộc vào con cháu. Quan niệm truyền thống khiến nhiều gia đình xem việc gửi cha mẹ vào viện dưỡng lão là điều khó chấp nhận, bản thân các cụ cũng e ngại vì định kiến xã hội. Trong khi đó, dịch vụ hỗ trợ và nhà dưỡng lão chưa phổ biến. Đến năm 2024, theo Tổng cục thống kê, Việt Nam chỉ có 32/63 tỉnh thành có cơ sở chăm sóc người lớn tuổi, với khoảng 400 nhà dưỡng lão . Hệ thống y tế chưa đáp ứng đủ chăm sóc dài hạn, còn các hoạt động cộng đồng cho người lớn tuổi thường mang tính tự phát, thiếu sự đồng bộ và kế hoạch bền vững. Nếu không có chính sách hỗ trợ, chi phí chăm sóc sẽ trở thành gánh nặng cho cả gia đình lẫn xã hội. Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Theo tôi, cần phân nhóm người lớn tuổi để kết hợp với chương trình việc làm, đưa ra giải pháp phù hợp. Tôi tạm chia thành ba nhóm: nhóm sống cùng con cháu, nhóm neo đơn không nơi nương tựa và nhóm mất khả năng lao động do bệnh tật. Với nhóm sống cùng con cháu, nhiều người sẽ cảm thấy cô đơn khi con cái đi làm, cháu nhỏ đi học. Việc đi lại khó khăn và hạn chế tiếp cận công nghệ càng khiến họ dễ buồn chán. Giải pháp là phát triển mô hình sản xuất sinh lợi tại chỗ, như trồng rau sạch, đan lát thủ công mỹ nghệ, khâu vá gia công hoặc bán hàng tạp hóa nhỏ. Những công việc này dễ triển khai, chi phí thấp, mang lại thu nhập tuy không cao nhưng giúp các cụ tìm thấy niềm vui và giữ đầu óc minh mẫn. Với nhóm neo đơn, không nơi nương tựa, cần sự chung tay của Nhà nước và cộng đồng để xây dựng viện dưỡng lão giá rẻ, kết hợp mô hình sinh lợi như sản xuất nông sản hoặc hàng thủ công qua hợp tác xã địa phương. Điều này giúp các cụ có nguồn thu nhập ổn định và duy trì cuộc sống ý nghĩa. Thách thức nằm ở chi phí đầu tư và vận hành các mô hình này, đòi hỏi sự phối hợp tốt giữa khu vực công và tư nhân. Nhóm yếu thế nhất là những người mất khả năng lao động do bệnh tật. Họ phụ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp xã hội hoặc làm các công việc bấp bênh như bán vé số, thậm chí ăn xin. Nhiều cụ đối mặt với thiếu thốn dinh dưỡng, điều kiện sống kém và không được chăm sóc y tế đầy đủ. Để hỗ trợ, cần mở rộng mạng lưới bảo trợ xã hội, đảm bảo họ có cuộc sống tối thiểu. Các chương trình tái hòa nhập, như tham gia công việc nhẹ nhàng - ví dụ gói hàng, phân loại sản phẩm - có thể cải thiện chất lượng sống và giảm tình trạng người già lang thang cơ nhỡ. Để những giải pháp này thực sự hiệu quả, rất nhiều công việc cần được triển khai, từ thay đổi nhận thức xã hội, nâng cấp hạ tầng đến việc đảm bảo nguồn ngân sách bền vững. Nguồn lực Nhà nước bao giờ cũng hạn hẹp, nên sự chung tay của các doanh nghiệp tư nhân là yếu tố quyết định đến mức độ thành công của các chương trình chăm sóc và tạo việc làm cho người già. Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện làm việc linh hoạt. Các công ty có thể tuyển dụng người lớn tuổi vào những vị trí phù hợp nhằm tận dụng tay nghề và kinh nghiệm của họ. Muốn được như vậy, Nhà nước cũng cần nghiên cứu áp dụng các ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính nhằm khuyến khích trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Nhìn ra thế giới, nhiều quốc gia đã phát triển các mô hình kết hợp hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp tư. Nhật Bản khuyến khích người lớn tuổi làm việc bán thời gian, tư vấn hoặc đào tạo thế hệ trẻ, với chương trình "Silver Human Resources Centers", nơi họ có thể góp sức trong các lĩnh vực phù hợp. Đức hỗ trợ họ tham gia hoạt động cộng đồng và doanh nghiệp xã hội, giúp duy trì sự kết nối và cảm giác có ích đồng thời phát triển hệ thống bảo hiểm chăm sóc dài hạn . Singapore xây dựng chính sách linh hoạt, cho phép làm việc theo giờ mà vẫn đảm bảo sức khỏe. Những mô hình này có thể là kinh nghiệm để Việt Nam tham khảo, xây dựng kế hoạch cho người lớn tuổi, giúp họ vừa đóng góp cho xã hội vừa nâng cao chất lượng sống. Tôi luôn cảm thấy an lòng khi hàng ngày trở về nhà, thấy mẹ bận rộn khâu vá, thấy ba hào hứng kể chuyện công trường. Tôi nghĩ một quốc gia cũng vậy, sẽ vững tâm theo đuổi các mục tiêu lớn hơn khi tạo dựng được một hệ thống an sinh hỗ trợ những người đã đóng góp hơn nửa đời mình cho gia đình, cộng đồng và đất nước. * Bài viết có sự đóng góp của Lê Nguyên Ngân Mai Quốc Bửu